Công Nghệ Và Đổi Mới Sáng Tạo Ueh

Công Nghệ Và Đổi Mới Sáng Tạo Ueh

Công ty công nghệ, sản xuất và thương mại: Quản trị viên, chuyên viên điều hành, chuyên viên tư vấn tại các bộ phận công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm kinh doanh mới

Công ty công nghệ, sản xuất và thương mại: Quản trị viên, chuyên viên điều hành, chuyên viên tư vấn tại các bộ phận công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm kinh doanh mới

Ông Trần Văn Huyến, Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hậu Giang tham quan khu trưng bày sản phẩm tại Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2023.

"Tuần lễ chuyển đổi số năm nay hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức, tạo cơ hội trao đổi, hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức, doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác chuyển đổi số, đẩy mạnh liên kết hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; đồng thời hỗ trợ quảng bá các tiềm năng, góp phần nâng cao hiệu quả xúc tiến, thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp công nghệ vào địa bàn tỉnh Hậu Giang và vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và khu vực", Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang nhấn mạnh.

Diễn ra trong thời gian từ ngày 18 đến 20-5, tuần lễ chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2023 với nhiều chuỗi hoạt động, hội thảo, sự kiện triển lãm vô cùng phong phú và thiết thực, tập trung trên các lĩnh vực như: Chuyển đổi số cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, cho các ngành Nông nghiệp, Y tế, Giáo dục, Du lịch; Hội thảo Xúc tiến đầu tư, Xúc tiến thương mại và Xúc tiến đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin; Thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Ông Lâm Nguyễn Hải Long, Chủ tịch Hội Tin học thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Qua một năm đồng hành cùng tỉnh Hậu Giang, HCA thấy nhận thức về chuyển đổi số của cán bộ, công chức, doanh nghiệp, người dân đã chuyển biến tích cực về mặt nhận thức, tư tưởng. Đặc biệt là doanh nghiệp, người dân đã bắt đầu có ý thức, mong muốn được tham gia vào quá trình chuyển đổi số. Thông qua Tuần lễ năm nay, HCA kỳ vọng hoạt động này không chỉ góp phần thúc đẩy tỉnh Hậu Giang mà còn là tiền đề phát triển liên kết vùng, phát triển kinh tế xã hội khu vực Đồng bằng sông Cửu Long".

(TG) - “Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024” được kỳ vọng sẽ đóng góp tích cực vào công cuộc chuyển đối số, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang. Đồng thời là tiền đề phát triển liên kết vùng, phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long trong giai đoạn mới.

Tiếp nối giá trị và kết quả đạt được của các năm 2022, 2023, UBND tỉnh Hậu Giang đã ban hành kế hoạch về việc tổ chức “Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024”.

Chương trình có sự phối hợp của Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh cùng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh Hậu Giang; nhằm mục đích thúc đẩy phát triển các giải pháp chuyển đổi số, tìm kiếm giải pháp công nghệ và đổi mới sáng tạo trong việc phát triển kinh tế xanh và bền vững phù hợp với tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, môi trường. Đồng thời, tạo cơ hội trao đổi, hợp tác giữa các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, giải pháp chuyển đổi số, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nói chung, tỉnh Hậu Giang nói riêng. Đây cũng là dịp để các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long quảng bá hình ảnh, thu hút đầu tư, mở ra nhiều cơ hội hợp tác tiềm năng trong tương lai...

“Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024” do UBND tỉnh Hậu Giang chủ trì, phối hợp với Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh cùng các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh tổ chức ngày 23 và 24/5/2024 tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Hậu Giang. Thông tin chi tiết về chương trình được cập nhật tại website: https://tuanleso-khoinghiep.haugiang.gov.vn/

“Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024” dự kiến có khoảng 1.000 đại biểu tham dự bao gồm các chuyên gia, diễn giả hàng đầu về chuyển đổi số, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đến từ các bộ, ngành Trung ương; đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội, hội ngành nghề, tổ chức, tập đoàn, doanh nghiệp tỉnh Hậu Giang, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các tỉnh, thành phố trong khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long; các tổ chức, đoàn xúc tiến thương mại, tập đoàn, doanh nghiệp trong nước và quốc tế.

Đây là năm thứ ba của chương trình ba năm liên tiếp mà Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh cam kết cùng tỉnh Hậu Giang tổ chức các sự kiện lớn về ngành công nghệ thông tin và Chuyển đổi số cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong đó chọn Hậu Giang làm điểm đến.

Theo kế hoạch, chương trình năm nay sẽ có 6 hội thảo và 4 hoạt động bền lề, bao gồm: 1) Khu trải nghiệm và trưng bày Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo diễn ra xuyên suốt trong 2 ngày với 60 gian hàng, trong đó có 40 gian hàng trưng bày các sản phẩm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, các sản phẩm OCOP, và 20 gian hàng giới thiệu các thiết bị công nghệ, các sản phẩm, giải pháp chuyển đổi số uy tín đến từ các tổ chức, tập đoàn, doanh nghiệp khắp cả nước. 2) Các chủ đề hội thảo được mở rộng với hơn 30 bài tham luận giới thiệu, chia sẻ kinh nghiệm triển khai các giải pháp, ứng dụng công nghệ trong nhiều lĩnh vực như: Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hướng tới công nghệ xanh, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững; chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số; Chuyển đổi số thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; công nghệ mới thúc đẩy chuyển đổi số doanh nghiệp; Chuyển đổi số thúc đẩy bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên bền vững. 3) Bên cạnh những hoạt động chính, trong khuôn khổ Tuần lễ còn có các hoạt động tham quan, kết nối, hỗ trợ các doanh nghiệp tỉnh thực hiện công tác chuyển đổi số; cũng như các hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho cộng đồng.

Theo Ban tổ chức, “Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024” cũng là cơ hội kết nối hệ sinh thái của tỉnh Hậu Giang với hệ sinh thái vùng, quốc gia. Giới thiệu, quảng bá dự án, sản phẩm khởi nghiệp, sản phẩm OCOP, sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, sản phẩm phục vụ du lịch địa phương... Qua đó tạo cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm giữa các tổ chức, cá nhân khởi nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa với các chuyên gia hỗ trợ khởi nghiệp trong và ngoài tỉnh.

Ngày 2/12/2020 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU về xây dựng Chính quyền điện tử và chuyển đổi số tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Đến nay, tỉnh đã hoàn thành và đưa vào vận hành hiệu quả các nền tảng dùng chung thiết yếu, Trung tâm Giám sát điều hành đô thị thông minh, Ứng dụng di động Hậu Giang (Hau Giang App) được nhiều người dân sử dụng và đánh giá cao, tỉnh đã thành lập hơn 600 Tổ Công nghệ số cộng đồng tại tất cả các ấp, khu vực trên địa bàn tỉnh với hơn 4.000 thành viên tham gia để hỗ trợ cho người dân tham gia chuyển đổi số, đặc biệt là tỉnh đã thành lập Khu Công nghệ số tỉnh Hậu Giang, với quy mô 28,5ha... Qua đó đã tạo nhiều chuyển biến tích cực trong công tác quản lý điều hành của 3 cấp chính quyền; tạo môi trường giao tiếp khoa học và hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước với nhau, cũng như giữa người dân và doanh nghiệp với chính quyền; góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch và tăng mức độ hài lòng của người dân với chính quyền; đồng thời đã tăng đáng kể các chỉ số về cải cách hành chính, năng lực cạnh tranh và chuyển đổi số của tỉnh.

Cùng với khát vọng vươn lên của Hậu Giang, thông qua các hoạt động như “Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024”, cấp ủy và chính quyền tỉnh kỳ vọng Hậu Giang sẽ luôn là điểm đến lý tưởng cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư; đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, với sự sẵn sàng về cơ chế, chính sách, đến môi trường đầu tư, cũng như nguồn lực tại chỗ; xác định công nghệ thông tin là bước đột phá, tạo ra bước phát triển mạnh mẽ cho Hậu Giang, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã đề ra “Đưa tỉnh Hậu Giang trở thành một trong những tỉnh phát triển khá của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long...”./.

Các đơn vị tài trợ, đồng hành cùng “Tuần lễ Chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2024”:

Tài trợ Vàng: Công ty Cổ phần Tập đoàn Hương Việt; Công ty TNHH MTV Phát triển Công viên phần mềm Quang Trung; Công ty TNHH Công nghệ Azitech; VNPT Hậu Giang.

Tài trợ Bạc: Công ty TNHH DIGI-TEXX; Công ty TNHH một thành viên Phát triển Phần mềm Âu Lạc; Công ty TNHH FPT IS.

Tài trợ Đồng: Liên minh Chuyển đổi số Thành phố Hồ Chí Minh; Công ty Cổ phần Dịch vụ Công nghệ Tin học HPT; Công ty TNHH TP-LINK Technologies Việt Nam; Công ty Cổ phần iNET.

Đồng tài trợ: CNB Global Technology Inc; Công ty Cổ phần Trobz Consulting; Công ty Cổ phần Tmark; Công ty TNHH Phát triển Công nghệ Đông Nam; MobiFone tỉnh Hậu Giang; Viettel Hậu Giang - Chi nhánh Tập đoàn - Công nghiệp - Viễn thông Quân đội.

Đơn vị đồng hành: Công ty Cổ phần Đầu tư Thương mại và Phát triển Công nghệ FSI.

Trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10 khóa XIII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo - động lực chính cho phát triển, là trụ cột không thể thiếu trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế: “Trung ương thống nhất đánh giá: Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và Văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”.

Đây là nền móng quan trọng, định hướng cho việc phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn trong thời gian tới; đồng thời là lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chung tay, góp sức phát huy tối đa trí tuệ Việt, thúc đẩy tinh thần đổi mới sáng tạo để đưa đất nước bước vào một kỷ nguyên phát triển mới - “Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”.

Tạp chí xin trân trọng giới thiệu trích đoạn “Về văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng” trong bài phát biểu quan trọng này.

Các điều kiện bảo đảm để doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo

Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” khẳng định, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng chiến lược, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức canh tranh của nền kinh tế. Chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; phát triển các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ; tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu(1). Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu và là một đột phá chiến lược, động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế(2)…

Đồng thời, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta cũng nhất quán khẳng định rõ vai trò của doanh nghiệp là động lực chính của nền kinh tế - xã hội, yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh, quy mô, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp theo hướng phát triển bền vững. Điều này đặt ra yêu cầu các doanh nghiêp cần quan tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của khoa học và công nghệ, tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Ở góc độ vĩ mô, cần có môi trường để doanh nghiệp và các lực lượng trong hệ thống chính trị huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng, thế mạnh của mình góp phần phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Điều kiện tiên quyết là cần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, bảo đảm duy trì tăng trưởng hợp lý; đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung các nguồn lực phát triển nhanh hơn kết cấu hạ tầng then chốt, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Cần chú trọng bảo hộ quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ và thực thi các chính sách về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh. Tạo điều kiện thực hiện liên kết giữa các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác công - tư, hình thành các doanh nghiệp đầu tàu tạo nên chuỗi giá trị bền vững và chuỗi cung ứng hiệu quả; sửa chữa những thiếu sót, khiếm khuyết trên thị trường các yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường khoa học và công nghệ… đang được đặt ra ngày càng cấp bách.

Về phía doanh nghiệp, nỗ lực của chính bản thân cộng đồng doanh nghiệp vẫn là yếu tố mang tính chất quyết định để có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh và khắc phục những hạn chế do nội lực, trình độ phát triển hay những yếu tố tác động bên ngoài khác. Các doanh nghiệp cần tập trung cải thiện năng suất lao động, hội nhập tốt hơn với nền kinh tế quốc tế, tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững và phát triển lâu dài. Muốn vậy, doanh nghiệp cần tích cực đầu tư cho nghiên cứu phát triển, nâng cao năng lực công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề cốt yếu, quan trọng hàng đầu để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.

Phát triển khoa học và công nghệ phải gắn chặt với đổi mới sáng tạo. Theo đó, cần phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm ứng dụng công nghệ và phát triển sản phẩm, các trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu và phát triển; tạo cơ chế liên kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp trên cơ sở chia sẻ về trách nhiệm và lợi ích tương hỗ.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng lần đầu xác định đầy đủ vai trò của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với thể chế, chính sách và vai trò trung tâm của doanh nghiệp, các điều kiện bảo đảm để doanh nghiệp thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, như quan điểm về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ; nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm mục tiêu; tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường trên cơ sở huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân; hỗ trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ…(3). Xây dựng môi trường hoạt động khoa học và công nghệ dân chủ, công khai, minh bạch; khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hành chính hóa trong hoạt động khoa học và công nghệ…

Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp ở Việt Nam

Việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam nói chung và trong cộng đồng doanh nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc. Kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được ứng dụng nhanh hơn, nhiều hơn, hiệu quả hơn trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang dựa nhiều vào ứng dụng khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các cơ quan quản lý đã từng bước đổi mới tư duy trong quản lý khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể tập trung nghiên cứu, khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị; rà soát, tái cơ cấu các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia; thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển, khai thác tài sản trí tuệ...

Các cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, đổi mới công nghệ đã có những tác động tích cực giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Hướng mạnh việc gắn nhiệm vụ khoa học và công nghệ với sản phẩm đầu ra, với thực tiễn và thị trường; kiên trì thực hiện trao quyền tự chủ tối đa cho các tổ chức khoa học và công nghệ gắn với trách nhiệm giải trình; khuyến khích doanh nghiệp và khu vực tư nhân thành lập viện nghiên cứu và doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đã hình thành các kênh tài chính hỗ trợ viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp thông qua hệ thống các quỹ quốc gia về khoa học và công nghệ. Đây là những dấu hiệu cho thấy hiệu quả của việc xã hội hóa trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Nhận thức chung của doanh nghiệp và người dân về vai trò của khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sản xuất, đời sống có bước chuyển đáng kể. Một bộ phận doanh nghiệp đã ưu tiên đầu tư, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất, đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, tạo bước tiến mới nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Năm 2023, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (Global Innovation Index) của Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2022. Theo Báo cáo GII 2023, Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 2 bậc so với năm 2022, từ vị trí 59 lên 57 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở vật chất, trình độ phát triển của thị trường, trình độ phát triển của doanh nghiệp). Đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 1 bậc so với năm 2022, từ vị trí 41 lên 40 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo).

Tuy nhiên, dù Việt Nam đã nỗ lực xây dựng khung pháp lý khuyến khích đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn gặp không ít khó khăn khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, khi đưa các sản phẩm khoa học và công nghệ ra thị trường. Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một bộ phận lớn doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ còn hạn chế, kết quả chưa cao. Năm 2023, theo Báo cáo của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chi R&D của Việt Nam xếp hạng 66, không có sự cải thiện so với các năm trước.

Trình độ khoa học và công nghệ của nước ta nhìn chung còn khoảng cách khá xa so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin, viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng…, nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn những bất cập. Sự chuyển giao công nghệ tiên tiến, có tính cạnh tranh cao từ các doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn.

Chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ chiếm khoảng 1,36% đến 1,52% tổng chi ngân sách nhà nước (chưa kể chi quốc phòng - an ninh và dự phòng). Tổng đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công nghệ bình quân trong các năm gần đây đạt khoảng 1,08% GDP, chưa đạt mục tiêu 2% GDP vào năm 2020...

Đặc biệt, từ góc độ thể chế, vẫn còn nhiều bất cập là rào cản đối với việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh. Do đó, Việt Nam cần có nhiều giải pháp đồng bộ hoàn thiện thể chế huy động tổng lực cả ngân sách và nguồn lực tư nhân để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm tạo ra động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.

Giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo

Với việc chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, thì đổi mới sáng tạo và thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, thân thiện môi trường trở thành động lực quan trọng hàng đầu, đồng thời cần đặt nhân tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao vào trung tâm của sự phát triển, tạo thành “tam giác”: Con người - thể chế - công nghệ.

Tiếp theo Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg, ngày 11-5-2022, về “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030”, trong đó đặt ra mục tiêu nâng cao đóng góp của khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng kinh tế thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các viện nghiên cứu và trường đại học, hoạt động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, tổ chức trong doanh nghiệp. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFG) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%. Mục tiêu đến năm 2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ và số doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tăng hai lần so với năm 2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, đầu tư phát triển khoa học và công nghệ đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới…

Để góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tính cấp thiết phải xây dựng và hoàn thiện thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về thực hiện chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, trước hết là việc tạo lập môi trường thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong xây dựng cơ chế quản lý, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; đồng thời phát huy các tiềm năng để đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững. Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Thực hiện các chương trình thí điểm cơ chế hợp tác phù hợp cho mục đích nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo, từ đó tập trung khai thác nguồn lực khác nhau (như hợp tác công - tư, dịch vụ hành chính công hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ…). Tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nước ngoài. Sử dụng các chính sách ưu đãi về thuế để thu hút vốn đầu tư, cả từ trong nước và các nguồn lực nước ngoài đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp hỗ trợ…

Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ cuối cùng theo kết quả đầu ra. Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài thuộc các lĩnh vực ưu tiên; hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước.

Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế sử dụng vốn sự nghiệp kinh tế hỗ trợ đổi mới và chuyển giao công nghệ. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định việc doanh nghiệp lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ; coi đây là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp nhà nước và là hoạt động được khuyến khích hỗ trợ ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cao. Đồng thời, chú trọng ngăn chặn có hiệu quả việc nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ gây nguy hại đến sức khoẻ con người, tài nguyên, môi trường, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Thứ ba, đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập về nhân lực, kinh phí hoạt động dựa trên kết quả và hiệu quả hoạt động. Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực gắn với yêu cầu vận dụng trong thực tiễn phát triển sản xuất, kinh doanh và nhu cầu thị trường. Tăng cường thực hiện cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Giao quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng thời có cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả. Tạo điều kiện để các tổ chức khoa học và công nghệ được vay vốn từ các quỹ hoặc các tổ chức tín dụng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ.

Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thể chế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thông qua thực thi các Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Xây dựng các mô hình hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo mối liên hệ theo chuỗi cung ứng. Tăng cường hiệu quả các quy định ưu đãi đối với đối tượng là doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, như mức ưu đãi đối với kết quả nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ mới và các sản phẩm, dịch vụ khoa học và công nghệ mới. Tập trung cải thiện các thể chế liên quan nhằm tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp xuất khẩu có năng suất cao hơn với các nhà cung ứng trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Thứ năm, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước vào các dự án nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, từ các doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, các nguồn lực xã hội, đa dạng các kênh đầu tư, tăng tính liên kết hệ thống để thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ. Ngược lại, khi thị trường khoa học và công nghệ phát triển sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp dễ dàng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ để mở rộng, nâng cao chất lượng sản xuất, kinh doanh. Điều này cần có sự hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa để hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ.

Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại các thành phố lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới để phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo mở của doanh nghiệp, từ đó tăng khả năng nghiên cứu phát triển, tăng nguồn cung - cầu và giao dịch cung - cầu phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Đối với các doanh nghiệp, cần lấy đổi mới công nghệ và chất lượng quản lý làm phương pháp then chốt để khắc phục khó khăn, vươn lên trở thành chủ thể chính của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Để tồn tại và lớn mạnh, các doanh nghiệp cần hướng mạnh vào thị trường, tích cực nghiên cứu và phát triển, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại./.

-------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, t. I, tr. 120 - 121 (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 220, 140 (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 141